" Một quần đảo xanh biếc.
Giữa chập trùng biển khơi
Côn Đảo trang sử liệt oanh
Côn Đảo giữa ngàn trùng xa
Trời xanh, biển xanh, và đảo xanh thế cho lòng ngẩn ngơ"
( Bay ra Côn Đảo - Quỳnh Hợp)
Những câu hát sâu lắng, thiết tha đưa tôi đến với vùng biển đảo thăng trầm của lịch sử.
cùng vẻ xa xăm nơi miền Nam đất Việt. Đó là nơi mà vùng đất, vùng trời,vùng biển đều mang sức sống căng tràn đẹp rực rỡ khiến cho con người "lòng ngẩn ngơ" nhưng cũng chứa đựng biết baoNgười ta gọi xứ sởkì diệu ấy bằng cái tên đầy ấn tượng: Côn Đảo. Nơi đây vốn là một quần đảo ở ngoài khơi bờ biển Nam Bộ (Việt Nam) và cũng là huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Lịch sử Việt Nam trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn hoặc Côn Nôn. Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor. Côn Đảo có tổng diện tích 76 km vuông với 16 đảo nhỏ hợp thành.
Bản đồ Côn Đảo
Tôi đến với Côn Đảo vào dịp lễ kỷ niệm ngày thống nhất đất nước 30/4- một ngày đầy nắng và gió. Có lẽ những ai đã từng một lần đặt chân đến đều không sao quên được vẻ đẹp say mê lòng người, những cảnh sắc kỳ thú của đất trời, đồi núi, rừng cây, bờ biển mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Côn Đảo. Nơi đây được xem là hòn đảo du lịch với những bãi tắm hoang sơ và tuyệt đẹp, làn nước trong xanh mát lạnh, bãi cát dài phẳng mịn. Không khí trên đảo thật trong lành, thị trấn mơ màng dưới bóng những cây bàng cổ thụ và những bờ tường rêu phong. Côn Đảo được ví như thiên đường nghỉ dưỡng. Trước vẻ thanh bình ấy, làm sao có thể tin rằng nơi đây từng là "Địa ngục trần gian"?
Ôi ! Côn Đảo với cảnh quan mê hoặc lòng người, nhưng chiến tranh xâm lược, sự đô hộ và áp bức của thực dân Pháp và các thế lực đế quốc xâm lược đã biến Côn Đảo thành địa ngục trần gian.
Với thời gian dài đô hộ của các thế lực thực dân, đế quốc : mười sáu hòn đảo giữa biển khơi xanh biếc cây cối đã phải đè nặng trên mình Nhà tù, tháp canh, trại lính… Cách nay hơn một thế kỷ thực dân Pháp đã biến Côn Đảo thành một nhà tù lớn nhất xứ Đông Dương. Hàng chục vạn lớp người yêu nước Việt Nam từ khắp mọi miền đất nước đã bị lưuđày ở đây vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.Không cam chịu cảnh đọa đày, không chịu khuất phục và chết dần chết mòn trong ngục tối, những người con ưu tú của dân tộc đã đoàn kết và đấu tranh, cải biến chế độ lao tù, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, thành mặt trận đấu tranh, tiến công địch ngay cả lúc sa cơ thất thế. Cuộc đấu tranh trong nhà tù Côn Đảo nhằm bảo vệ quyền sống, bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng đã rực sáng phẩm chất kiên cường, là những trang đẹp nhất trong bản anh hùng ca giữ nước của dân tộc.
Tù khổ sai xay lúa
Tôi đã cùng với đoàn du lịch đi tham quan rất nhiều di tích lịch sử tại 
Côn Đảo vào ngày đầu tiên đặt chân tới đây. Dấu ấn sâu lắng nhất đọng lại Dương… là minh chứng cho tội ác của thực dân – đế quốc.trong tôi là di tích: đày ải, chết dần, chết mòn trong ngục tối. Hơn hai vạn người đã vĩnh viễn nằm lại nơi mảnh đất thiêng liêng này. Thật đúng là:Cầu tàu 914, những trại giam, Chuồng Cọp, Chuồng Bò,
nghĩa trang Hàng
Núi Côn Lôn được pha bằng máu
Đất Côn Lôn năm sáu lớp xương người
Mỗi bước chân che lấp một cuộc đời
Mỗi tảng đá là một trời đau khổ
(Côn Đảo và những truyền thuyết).
Tôi cùng đoàn đến viếng nghĩa trang
Hàng Dươngvào chiều ngày 30/4.Ai cũng ăn mặc lịch sự và một lòng kính cẩn dâng lên những nén hương bày tỏ niềm biết ơn, cảm phục những con người đã ngã xuống vì độc lập dân tộc. Một phút mặc niệm để lòng lắng lại và hồi tưởng về quá khứ.
Những câu chuyện về Nguyễn An Ninh, Võ Thị Sáu… cứ vang vọng mãi trong lòng . Có lẽ ấn tượng nhất trong tôi vẫn là hình ảnh chị Võ Thị Sáu, tên của chị đã đi vào huyền thoại ở mảnh đất Côn Đảo này. Nhà tưởng niệm Anh hùng Liệt sĩ Võ Thị Sáu nằm ngay trung tâm huyện Côn Đảo nơi trưng bày những hình ảnh, hiện vật về người thiếu nữ kiên trung, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cách mạng. Khi bị đưa ra pháp trường, chị vẫn hiên ngang giữ vững khí tiết của người cộng sản. Hiện nay, nhà tưởng niệm đang lưu
giữ những kỷ vật về chị và gia đình lúc sinh thời chị vẫn dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Những kỉ vật ấy như mang hơi thở hoài niệm. Dẫu người nữ anh hùng ấy đã đi xa lắm rồi, ta như ngỡ hồn chị Sáu vẫn còn phảng phất đâu đây, trong những cơn gió hay là những câu hát:
" Mùa hoa lê - ki - ma nở
Ở quê ta miền Đất Đỏ
Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng
.....
Tôi đến hát trước nấm mồ chôn sâu
Người nữ anh hùng"
( Biết ơn chị Võ Thị Sáu - Nguyễn Đức Toàn)
Mộ Chị Võ Thị Sáu
Nhưng có lẽ phải đến nghĩa trang Hàng Dương vào nửa đêm mới cảm nhận hết sự lạnh lẽo của một vùng địa ngục quá khứ. Những ánh đèn chạy bằng pin mặt trời cháy xanh nhạt trong đêm, tiếng tắc kè đột ngột trong gió biển thổi vô hồn vào đêm như khúc nhạc cầu hồn tử sĩ, những que hương cháy mờ tỏ bên những nấm mồ và những bó hương rực lên trên mộ chị Võ Thị Sáu…tạo ra một cảm giác vừa bi thương oan khuất vừa dữ dội linh thiêng. Tôi cũng như bao người khác thắp nén hương lên mộ bà Sáu và những ngôi mộ xung quanh cầu cho linh hồn họ được an
nghỉ và phù hộ cho những con người của ngày hôm nay.
Tôi đã đứng lặng hồi lâu trước những trại giam, nghĩa địa tù…đắm chìm suy tư vào quá khứ, hình dung lại kiếp sống đọa đày trong ngục tối của tù nhân, cùng những mất mát hy sinh tranh đấu để giành chiến thắng trước mũi súng quân thù qua lời thuyết minh của hướng dẫn viên. Dường như ở Côn Đảo mỗi tảng đá, mỗi gốc cây, mỗi thảm cỏ, lối đi trong trại giam đều thấm đẫm máu người tù của hơn một thế kỷ đấu tranh. Tham quan di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo, niềm bồi hồi xúc động trước những mất mát, hy sinh lớn lao vượt sức tưởng tượng và chịu đựng của con người dâng tràn. Mỗi hiện vật, mỗi ngôi mộ, xà lim, hầm tối…không chỉ là một số phận, một chứng tích tội ác của thực dân – đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh trong tù, tỏa sáng chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Ngày thứ hai tới Côn Đảo, tôi cùng đoàn đi tham quan một di tích khác - nơi để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bất cứ ai từng đặt chân lên vùng đảo hoang sơ này chính là miếu Bà. Ở gần họng Đầm, đối diện với hòn Bà, có ngôi miếu bà dựng lên để ghi công người 
phụ nữ can đảm dám can chúa Nguyễn Ánh đừng “cõng rắn cắn gà nhà”. Sau khi bà Phi Yến chết, ngôi đền thờ bà được dựng nên tại làng An Hải gần thị trấn Côn Đảo. Việc xây ngôi đền thờ bà tại An Hải từ một lý do lịch sử: Rằm tháng bảy năm ất Hợi (1785) ban hương chức làng An Hải cử đại diện qua làng Cỏ ống thỉnh bà về dự lễ xá tội vong nhân. Buổi lễ kéo dài đến khuya, sau đó Bà nghỉ đêm trong nhà việc tại làng An Hải để ngày hôm sau về Cỏ ống. Năm ấy bà 24 tuổi, dung nhan còn lộng lẫy, trong làng có tên đồ tể tên Biện Thi đem lòng tà dục, mò vào cấm phòng nắm lấy tay Bà. Nghe tiếng bà tri hô, dân làng kéo đến đóng gông tên Biện Thi chờ ngày xử tội. Tủi phận mình, bà đã chặt đứt cánh tay bị xâm phạm rồi quyên sinh giữ vẹn danh tiết.
Những mất mát hi sinh của một thời ở Côn Đảo nay đã được bù đắp. Côn Đảo ngày nay đã là một mảnh đất thanh bình và ấp áp tình người, trở thành hòn ngọc của Tổ quốc; di tích nhà tù Côn Đảo là địa chỉ đỏ cho các thế hệ người Việt Nam tham quan học tập truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của các thế hệ ông cha… Tham quan du lịch Côn Đảo xem như một trải nghiệm về tâm linh để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các anh hùng dân tộc đã chiến đấu, hy sinh vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Về tương lai, Côn Đảo có thể phát triển, còn hiện tại Côn Đảo như một mảnh đất lưu tồn những bi kịch thảm khốc nhất một thời chiến tranh máu lửa do chủ nghĩa thực dân cũ và mới gây ra. Có lẽ những nhà ngục trên thế giới hiện còn lưu tồn khó nơi nào có thể sánh bằng nơi đây về sự đau đớn tột cùng, sự hy sinh tuyệt đối của những người chiến sỹ cách mạng và đồng bào yêu nước. Họ đã không để lại gì cho mình và khi ra đi vẫn giữ chặt một niềm tin lý tưởng vào sự thành công của cách mạng Việt Nam.
Trải qua bao thăng trầm, biến cố, Côn Đảo không hề mất đi vẻ đẹp hoang sơ vốn có của nó. Có lẽ vì thế mà nơi đây luôn là nguồn cảm hứng của bao thi nhân, nghệ sĩ chứ không chỉ là nơi để tham quan thưởng ngoạn. Côn Đảo, xuất hiện trong những tác phẩm nghệ thuật, trở nên đẹp kì diệu mà cũng vô cùng sinh động:
Tôi đã về đây Côn Đảo ơi
Chiều buông mây trắng quyện lưng đồi
Nắng ngả về đâu sau sóng biển
Trầm hương thoang thoảng giữa sương rơi...
( Lối - Lâm Viên)
Côn Đảo với thế núi, dáng đảo và màu xanh bất tận của biển trời, với cảnh sắc và con người trong quá khứ và hiện tại đã dâng hiến cho mỗi ai một lần đến thăm đảo có một niềm tin vào sự thánh thiện, vĩnh hằng và dù rời xa Côn Đảo nhưng vẫn luôn nhớ, luôn mong ngày thăm trở lại. Riêng tôi, khi nhớ về Côn Đảo là nhớ về quá khứ một thời, về những mất mát đau thương mà cha ông ta đã trải qua để con cháu đời sau được sống trong hoà bình, ấm no, hạnh phúc; thấy được sự hy sinh to lớn của những người cộng sản mà ta không diễn tả được bằng lời. Và thật khó có thể quên đi những con người mà tuổi tên của họ đã hòa vào tên đất nước. Tôi tự hứa với lòng: cần phải sống sao để không phụ công ơn của thế hệ đi trước. Có như thế thì sự hi sinh của họ mới không trở nên vô nghĩa.